Aa

Hòa Bình: Tập trung thực hiện 04 đột phá chiến lược tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội

Theo Thanh Hải/Cổng thông tin điện tử tỉnh Hòa Bình
Theo Thanh Hải/Cổng thông tin điện tử tỉnh Hòa Bình
Thứ Năm, 30/11/2023 - 22:33

Tỉnh Hòa Bình xác định nhiệm vụ phát triển nông nghiệp là nền tảng, công nghiệp là đột phá và du lịch là mũi nhọn; đồng thời đề ra 04 đột phá chiến lược cần tập trung thực hiện.

Hòa Bình là tỉnh miền núi, cửa ngõ của vùng Tây Bắc với điểm mạnh về vị trí địa lý và giao thông đã tạo cho tỉnh những điểm thuận lợi như: Hòa Bình là giao điểm giao thông với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và cả phía nam thông qua hệ thống đường bộ tương đối đồng bộ; việc tiếp giáp với Thủ đô Hà Nội tạo điều kiện cho tỉnh có thể thu hút và tiệm cận được các nguồn vốn đầu tư, khoa học công nghệ và lao động chất lượng cao, đồng thời nhận tác động lan tỏa về phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và đồng bằng sông Hồng.

Bên cạnh đó, với diện tích lâm nghiệp lớn, độ che phủ rừng đạt tỷ lệ cao, điều kiện thổ nhưỡng khí hậu tương đối thuận lợi là tiềm năng phát triển kinh tế nông nghiệp, đặc biệt là phát triển cây công nghiệp, lâm nghiệp, nông nghiệp sạch. Cùng với đó, với nguồn tài nguyên nước mặt tập trung, có trữ lượng lớn cũng là điều kiện thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản, đồng thời là nguồn nước sạch cung cấp cho Hà Nội và các tỉnh lân cận. Ngoài ra, với nhiều danh lam thắng cảnh tự nhiên, danh lam văn hóa gắn với bản sắc văn hóa truyền thống, rất thuận lợi cho tỉnh phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng...

Sau 17 năm thực hiện Nghị quyết 37-NQ/TW và Kết luận số 26-KL/TW của Bộ Chính trị, các văn bản chỉ đạo, điều hành của các cơ quan Trung ương, kinh tế - xã hội của tỉnh có bước tiến vượt bậc, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên đáng kể, cơ sở hạ tầng được cải thiện, hệ thống chính trị được củng cố, quốc phòng, an ninh được bảo đảm. Giai đoạn 2004-2020, tốc độ tăng trương kinh tế bình quân hàng năm đạt 8,14%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 21% năm 2004 lên 41,42% năm 2020, tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản giảm từ 46,9% năm 2004 xuống 23,05% năm 2020. Đến năm 2020, GRDP bình quân đầu người đạt 60,3 triệu đồng, gấp 16,9 lần so với năm 2004; thu ngân sách nhà nước đạt 4.116 tỷ đồng, gấp 12,8 lần so với năm 2004; tổng đầu tư toàn xã hội đạt 17.667 tỷ đồng, gấp 10,3 lần so với năm 2004; kim ngạch xuất khẩu đạt 1.032 triệu USD, gấp 41,3 lần so với năm 2004…

Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội có nhiều tiến bộ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người dân; các hoạt động văn hoá cơ sở được duy trì và hoạt động có hiệu quả; Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" được triển khai rộng khắp (bản sắc văn hóa các dân tộc của tỉnh được bảo tồn và phát huy). Hằng năm, tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học và tốt nghiệp trung học cơ sở đạt 99% trở lên; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp Trung học phổ thông đạt từ 86,46% trở lên. Đến năm 2020 có 55% trường học đạt Chuẩn quốc gia; 26 giường bệnh và 8,81 bác sỹ trên một vạn dân. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 56%; tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh theo chuẩn nghèo giai đoạn 2016 - 2020 còn 8,6%. Công tác cải cách hành chính được đẩy mạnh với 100% thủ tục hành chính được thực hiện tại Trung tâm phục vụ hành chính công... Hệ thống chính trị các cấp được xây dựng, hoàn thiện, ngày càng trong sạch, vững mạnh, phát huy tốt vai trò trên tất cả các ngành, lĩnh vực. Đội ngũ cán bộ, đảng viên được quan tâm toàn diện cả 3 mặt chính trị tư tưởng và tổ chức, đã phát huy được năng lực, phẩm chất của người cán bộ, đảng viên, đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Công tác Quốc phòng được thường xuyên chăm lo, thế trận lòng dân ngày càng vững chắc; khu vực phòng thủ được củng cố; lực lượng chính quy, dân quân tự vệ, dự bị động viên thường xuyên huấn luyện, đảm bảo sẵn sàng chiến đấu; cơ sở vật chất, hậu cần cho quốc phòng được tăng cường. Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn được đảm bảo, chủ động nắm chắc tình hình, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân xây dựng thế trận an ninh nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Công tác an ninh dân tộc, tôn giáo, chống "Diễn biến hòa bình" được kiểm soát, ngăn chặn kịp thời những hành vi chống phá của các thế lực thù địch, không để xảy ra điểm nóng.

Hòa Bình: Tập trung thực hiện 04 đột phá chiến lược tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội
- Ảnh 1.

Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XVII đã có những định hướng phát triển kinh tế - xã hội theo hướng “Xanh - Xanh hơn và Xanh hơn nữa”.

Bên cạnh những kết quả đạt được, tỉnh vẫn chưa phát triển đúng với tiềm năng hiện có. Đến nay, vẫn là tỉnh có kinh tế chậm phát triển, tỷ lệ hộ nghèo còn ở mức cao; chưa có khả năng tự cân đối ngân sách; hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, nhất là hạ tầng giao thông,… Cơ cấu kinh tế mặc dù đã chuyển dịch theo đúng hướng nhưng còn chậm. Phát triển khoa học, công nghệ chưa tạo được sự đột phá.

Ngành Công nghiệp chưa phát triển, chủ yếu dựa vào Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, phần còn lại chủ yếu vẫn sản xuất quy mô nhỏ, giá trị gia tăng thấp. Phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch của tỉnh chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Tỷ trọng cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao còn ít. Tốc độ phát triển doanh nghiệp còn chậm, quy mô doanh nghiệp chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ. Tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội còn tiềm ẩn nhiều phức tạp. Do địa hình chủ yếu là đồi núi dốc, chia cắt mạnh nên chi phí đầu tư hạ tầng giao thông lớn hơn so với các địa phương đồng bằng; hầu hết việc kết nối với các tỉnh khác chỉ bằng một đường giao thông độc đạo, quy mô nhỏ, mất nhiều thời gian di chuyển, đặc biệt vào mùa mưa bão, là trở ngại đối với các nhà đầu tư thì nguyên nhân chủ quan là các cấp, các ngành chưa thực sự năng động, trăn trở, có khát vọng để tìm cách vươn lên…, trình độ cán bộ chưa đồng đều và yếu so với mặt bằng chung cả nước.

Bước vào nhiệm kỳ mới, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đã có những định hướng phát triển kinh tế - xã hội theo hướng "Xanh - Xanh hơn và Xanh hơn nữa". Trong nhiệm kỳ 2020-2025, Đảng bộ và và Nhân dân tỉnh Hòa Bình quyết tâm khắc phục những những hạn chế, yếu kém, tạo động lực thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, phấn đấu đến năm 2025, kinh tế tỉnh Hòa Bình đạt mức trung bình của cả nước và đến năm 2030, đạt trình độ phát triển ở mức thu nhập trung bình khá của cả nước, thuộc nhóm dẫn đầu vùng trung du và miền núi Bắc Bộ.

Tỉnh cũng đã xác định nhiệm vụ phát triển nông nghiệp là nền tảng, công nghiệp là đột phá và du lịch là mũi nhọn; đồng thời đề ra 04 đột phá chiến lược cần tập trung thực hiện gồm:

Một là, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư.

Hai là, thực hiện tốt công tác quy hoạch và quản lý theo quy hoạch.

Ba là, phát triển nguồn nhân lực gắn với giải quyết việc làm, tăng năng suất lao động.

Thứ tư là, phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội.

Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo xây dựng một số nghị quyết, đề án để triển khai các giải pháp được nêu trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020-2025. Với ý chí vươn lên vượt mọi khó khăn, Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình sẽ quyết tâm hoàn thành các mục tiêu đã đề ra.

Trong thời gian tới, để các tỉnh trong vùng trung du và miền núi phía Bắc nói chung và tỉnh Hòa Bình nói riêng phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, nhằm góp phần đạt được mục tiêu Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 10/2/2022 của Bộ Chính trị đã đề ra: Giai đoạn 2021 - 2030 tăng trưởng GRDP bình quân đạt 8 - 9%/năm, tỷ lệ nghèo đa chiều giảm 2 - 3%/năm; cần có cơ chế chính sách như:

Một là, để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của Vùng cần tập trung đầu tư nhanh kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông kết nối các tỉnh với các trung tâm lớn của cả nước, các trục giao thông kết nối ngang, kết nối với đường cao tốc. Hiện nay các tỉnh Tây bắc gồm: Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu kết nối với Thủ đô Hà Nội chỉ có một trục giao thông chính đó là Quốc lộ số 6 với cấp kỹ thuật chưa cao; các trục kết nối ngang giữa các tỉnh chưa được đầu tư. Do vậy, trong giai đoạn 2021 - 2030 ngoài việc tập trung hoàn thành, nâng cấp các tuyến đường như đã nêu trong mục 2, Phần II, Chương trình hành động của Chính phủ ban hành kèm theo Nghị quyết số 96/NQ-CP ngày 01/8/2022 của Chính phủ về việc thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 10/02/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; đề nghị bổ sung triển khai đầu tư thêm Tuyến Cao tốc CT.03 (nối Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên), Tuyến quốc lộ 32D (nối Yên Bái - Sơn La - Hòa Bình) và Đường Vành đai 5 đoạn qua tỉnh Hòa Bình để kết nối với Hà Nội; đầu tư nâng cấp Sân bay Hòa Lạc thành sân bay lưỡng dụng.

Hai là, do đặc thù địa hình đồi núi dốc, chia cắt phức tạp, nên suất đầu tư và tổng nhu cầu vốn đầu tư các công trình hạ tầng giao thông rất lớn. Trong điều kiện ngân sách Nhà nước còn hạn chế, thì việc huy động nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc phát triển kinh tế xã hội của các địa phương. Nhưng theo quy định của Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư thì các dự án đầu tư hạ tầng giao thông theo loại hợp đồng BOT rất khó thực hiện, do phương án tài chính khả thi thấp, khó hoàn vốn, mặt khác nếu thực hiện thì nhân dân, doanh nghiệp trên địa bàn phải trả phí giao thông quá cao, làm tăng chi phí sản xuất, không thúc đẩy được phát triển kinh tế xã hội của các địa phương trong Vùng. Do đó, đề nghị có cơ chế hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước cho các dự án BOT phát triển hạ tầng giao thông bằng số chênh lệch do suất đầu tư quá cao so với suất đầu tư bình quân chung của cả nước. Hầu hết các tỉnh trong Vùng đều là các địa phương có điều kiện kinh tế khó khăn, phần lớn chưa cân đối được ngân sách, nên theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước (khoản 6, Điều 7), thì mức dư nợ vay ngân sách địa phương của các tỉnh trong vùng không vượt quá 20% số thu ngân sách được hưởng theo phân cấp, như vậy trần nợ chính quyền địa phương quá thấp, không đảm bảo điều kiện thu hút vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài. Do đó đề nghị có cơ chế Trung ương bảo lãnh hoặc điều chỉnh điều kiện về trần nợ chính quyền địa phương đối với các tỉnh trong Vùng.

Ba là, đất ruộng của các địa phương manh mún, bậc thang, nên việc phát triển cây lúa nước không phải là thế mạnh của các tỉnh trong Vùng. Do đó đề nghị có cơ chế ủy quyền cho Hội đồng nhân dân các tỉnh trong Vùng thực hiện trình tự, thủ tục quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng đất lúa nước 2 vụ trở lên với quy mô từ 10 ha đến 50 ha; chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác đối với rừng sản xuất từ 50 ha đến 300 ha. Các địa phương chỉ được phép chuyển đổi mục đích sử dụng của từng loại đất trong hạn mức đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quy hoạch tỉnh và phải đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật hiện hành về trình thự, thủ tục thực hiện.

Thứ tư là, do hoạt động khai thác khoáng sản, đầu tư xây dựng các nhà máy thủy điện và tác động của biến đổi khí hậu, do vậy mưa lũ, sạt lở đất thường xuyên xảy ra trên địa bàn các địa phương trong Vùng. Đề nghị có cơ chế chính sách riêng về phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai cho Vùng, ưu tiên hỗ trợ cho các địa phương trong Vùng đầu tư các trạm cảnh báo sạt lở, lũ quét, động đất và đầu tư xây dựng các kè chống sạt lở, các khu tái định cư.

Năm là, đối với các xã đã về đích nông thôn mới nằm trong khu vực trọng điểm về an ninh, quốc phòng được thụ hưởng các chính sách ưu đãi của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo mức của các xã đặc biệt khó khăn; được ưu tiên phân bổ nguồn lực, hỗ trợ mua bảo hiểm y tế, tiếp cận tín dụng… Đồng thời có cơ chế riêng về thu hút đầu tư trong nước vào các địa bàn không được thu hút đầu tư nước ngoài.

Sáu là, Vùng Trung du miền núi Bắc Bộ có nhiều nhà máy thủy điện. Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đã góp phần cải thiện sinh kế của các hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư làm nghề rừng, đặc biệt là các hộ đồng bào dân tộc thiểu số; góp phần bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và đảm bảo nguồn nước cho các nhà máy thủy điện. Tuy nhiên, hiện nay cơ chế điều phối tiền dịch vụ môi trường rừng đang được tính trên diện tích rừng trong lưu vực, chưa tính đến dịch vụ bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối. Đề nghị áp dụng cơ chế phân chia khoản tiền dịch vụ môi trường rừng thu được từ các nhà máy thủy điện theo tỷ lệ: 48% để chi trả dịch vụ điều tiết, duy trì nguồn nước cho sản xuất, đời sống xã hội của toàn bộ các lô rừng thuộc lưu vực thu nước của nhà máy thủy điện, còn lại 52% chi trả cho dịch vụ bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối./.

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top